Table of Contents
Cảm nhận bài thơ Hầu trời của Tản Đà gồm dàn ý và 3 bài văn mẫu siêu hay, ấn tượng nhất. Qua 3 bài cảm nhận Hầu trời giúp các bạn lớp 11 có thêm nhiều gợi ý tham khảo, trau dồi kỹ năng, vận dụng kiến thức đã học để nhanh chóng viết thành một bài văn hay, hoàn chỉnh.
Hầu Trời là một bài thơ độc đáo và đặc sắc, tuy khá dài nhưng bố cục chặt chẽ, giọng thơ liền mạch, nhất khí, cảnh và tình rất tự nhiên, diễn biến theo câu chuyện, lôi cuốn người đọc từ đầu đến cuối. Qua đó, giúp ta cảm nhận thêm chất lài tử, tài hoa và cái ngông của Tản Đà thi sĩ. Vậy sau đây là 3 bài văn mẫu cảm nhận hay nhất, mời các bạn cùng theo dõi tại đây.
Cảm nhận bài thơ Hầu trời hay nhất
Dàn ý cảm nhận bài thơ Hầu trời
1. Mở bài
– Giới thiệu về tác giả Tản Đà và bài thơ Hầu trời
– Dẫn dắt vào vấn đề
2. Thân bài
– Khái quát chung
- Xuất xứ: Trích từ tập “còn chơi”
- Bố cục: 4 phần
- Chủ đề: thể hiện cái tôi ngông của tác giả sau khi về lại trần gian.
– Phân tích
- Thi nhân đọc thơ cho trời và chư tiên nghe
- Thái độ của thi nhân khi đọc thơ và việc thi nhân nói về tác phẩm của mình:
- Thi nhân đọc rất cao hứng, sảng khoái và có phần tự đắc: “ Đọc hết văn vần sang văn xuôi/Hết văn thuyết lý lại văn chơi”
- Thi nhân kể tường tận, chi tiết về các tác phẩm của mình: “Hai quyển khối tình văn lý thuyết/ Hai khối tình còn là văn chơi/ Thần tiên, giấc mộng văn tiểu thuyết….”
- Giọng đọc: đa dạng, hóm hỉnh, ngông nghênh có phần tự đắc.
=> Đoạn thơ cho thấy thi nhân rất ý thức về tài năng văn thơ của mình và cũng là người táo bạo, dám đường hoàng bộc lộ “cái tôi” cá thể. Ông cũng rất “ngông” khi tìm đến trời để khẳng định tài năng. Đây là niềm khát khao chân thành trong tâm hồn thi sĩ.
– Thái độ của người nghe: Rất ngưỡng mộ tài năng thơ văn của tác giả.
- Thái độ của trời: khen rất nhiệt thành: văn thật tuyệt, văn trần được thế chắc có ít, văn chuốt như sao băng…
- Thái độ của chư tiên: xúc động, hâm mộ và tán thưởng…Tâm nở dạ, cơ lè lưỡi…
=> Cả đoạn thơ mang đậm chất lãng mạn và thể hiện tư tưởng thoát li trước cuộc đời.
– Thi nhân trò chuyện với trời:
- Thi nhân kể về hoàn cảnh của mình =>Trong văn chương việc thể hiện họ tên trong tác phẩm chính là một cách để khẳng định cái tôi cá nhân của mình.
- Thi nhân kể về cuộc sống: Đó là một cuộc sống nghèo khó, túng thiếu, thân phận nhà văn bị rẻ rúng, coi thường. Ở trần gian ông không tìm được tri âm, nên phải lên tận cõi trời để thỏa nguyện nỗi lòng.
=> Đó cũng chính là hiện thực cuộc sống của người nghệ sĩ trong xã hội lúc bấy giờ, một cuộc sống cơ cực không tấc đất cắm dùi, thân phận bĩ rẻ rúng, làm chẳng đủ ăn.
=> Qua đoạn thơ tác giả đã cho người đọc thấy một bức tranh chân thực và cảm động về chính cuộc đời mình và cuộc đời nhiều nhà văn nhà thơ khác.
=> Cảm hứng hiện thực bao trùm cả đoạn thơ này.
– Trách nhiệm và khát vọng của thi nhân:
- Nhiệm vụ trời giáo: Truyền bá thiên lương. =>Nhiệm vụ trên chứng tỏ Tản Đà lãng mạn chứ không hoàn toàn thoát li cuộc sống. Ông vẫn ý thức về nghĩa vụ, trách nhiệm đối với đời để đem lại cuộc sống ấm no hạnh phúc hơn.
- Thi nhân khát khao được gánh vác việc đời => đó cũng là một cách tự khẳng định mình trước thời cuộc.
=> Như vậy có thể nói trong thơ Tản đà cảm hứng lãng mạn và cảm hứng hiện thực đan xen khăng khít.
3. Kết bài
– Nêu cảm nhận chung
Cảm nhận Hầu trời – Mẫu 1
Tản Đà là đại diện tiêu biểu của kiểu nhà nho tài tử buổi giao thời, là người đầu tiên Mang văn chương ra bán phố phường. Sáng tác của Tản Đà thể hiện một cá tính nghệ sĩ tài hoa, tài tử. Tản Đà viết cả văn và làm thơ nhưng ông nổi tiếng với tư cách nhà thơ hơn. Thơ Tản Đà mang màu sắc cổ điển về hình thức và mới mẻ về nội dung, ông được gọi là cầu nối giữa hai thời đại văn học trung đại và hiện đại. Là thi sĩ tài hoa và đa tình, ông viết nhiều về tình yêu. Đồng thời thơ Tản Đà còn thể hiện tính dân tộc rõ nét từ hình thức đến nội dung. Trong thơ ông, lòng yêu nước, yêu quê hương được biểu hiện rất phong phú và đa dạng, khi thì trực tiếp, khi thì gián tiếp.
Hầu Trời được xếp trong tập Còn chơi (1921) là bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Tản Đà. Bài thơ được viết dưới dạng tự sự, kể một tình huống tưởng tượng cảnh nhà thơ lên gặp trời để ngâm thơ cho trời nghe. Qua đó thể hiện ý thức cá nhân và thái độ của nhà thơ về nghề văn, về cuộc đời.
Tản Đà được coi là người nằm vắt mình qua hai thế kỉ, là gạch nối giữa thơ mới và thơ cũ, là người đặt nền móng cho thơ mới. Những đánh giá ấy đã xác nhận vị trí quan trọng của Tản Đà đối với văn học Việt Nam giai đoạn giao thời. Ông là đại diện tiêu biểu của văn học Việt Nam giai đoạn này, giai đoạn văn học dân tộc có những bước chuyển mình, bắt đầu cho giai đoạn hiện đại hóa mau lẹ. Hầu Trời là một bài thơ có rất nhiều điểm mới. Bài thơ thể hiện đậm nét cá tính sáng tác của Tản Đà. Mạch thơ được triển khai theo logic một câu chuyện với các chi tiết cụ thể, rành mạch, khiến cho bài thơ hấp dẫn và có sức thuyết phục: nằm một mình, buồn nên dậy đun nước uống rồi ngâm văn, động đến trời, tiên xuống hỏi rồi đưa lên gặp trời, trời cùng chư tiên đón tiếp long trọng, mời đọc thơ, giới thiệu về mình rồi đọc thơ và giãi bày cảnh ngộ cùng trời, trời giải thích, khen ngợi rồi cho đưa về trần giới. Nhà thơ đã chọn một cách rất độc đáo để thể hiện tâm sự của mình.
Chuyện hầu Trời bằng tưởng tượng đã giúp nhà thơ khẳng định tài năng của bản thân và bộc lộ quan niệm mới mẻ của ông về nghề văn, đồng thời thể hiện ý thức của cái Tôi cá nhân đầy cá tính của mình. Nhà thơ đã mở đầu câu chuyện của mình bằng một giọng điệu rất hấp dẫn, bịa mà rất tự nhiên, hóm hỉnh:
Đêm qua chẳng biết có hay không.Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng.Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!Thật được lên tiên – sướng lạ lùng.
Lí do được Trời mời lên hầu cũng thật đời thường và dễ tin: Nằm buồn dậy đun nước uống, rồi ngâm thơ, chơi trăng. Và Tiếng ngân vang cả sông Ngân Hà đã làm trời mất ngủ. Thế là được lên Trời.
Cuộc hội kiến với Trời và chư tiên được kể lại chi tiết, hồn nhiên, nghe tự nhiên như thật. Tác giả đã chọn lối kể chuyện nôm na của dân gian để tái hiện câu chuyện hầu Trời.
Nhà thơ tưởng tượng tình huống gặp Trời để giới thiệu về mình. Giới thiệu rõ, chính xác tên tuổi, quê hương, đất nước, nghề nghiệp, kể tên các tác phẩm của mình. Nhà thơ đã chọn tình huống độc đáo: gặp trời, ngâm thơ cho trời cùng chư tiên nghe, qua đó khẳng định tài năng của mình.
Đương cơn đắc ý đọc đã thíchChè trời nhấp giọng càng tốt hơn.Văn dài, hơi tốt ran cung mây!…
Tự khen tài của mình nhưng lại chọn hình thức để trời cùng chư tiên khen ngợi. Đây là một kiểu ngông đáng yêu.
Sau khi giới thiệu các tác phẩm, có phân chia rõ ràng thành từng loại theo quan điểm của bản thân (văn thuyết lí, văn chơi, văn tiểu thuyết, văn vị đời và lối văn dịch) thì đưa ra nhận xét, cùng với những nhận xét của trời Văn đã giàu thay, lại lắm lối (đa dạng về thể loại, giọng điệu). Nhà thơ lại còn mượn lời của trời để khẳng định tài năng của bản thân:
Trời lại phê cho: Văn thật tuyệt
Văn trần được thế chắc có ít!..Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!
Nhà thơ đã hiên ngang khẳng định cái Tôi của mình, gắn liền với tên tuổi thật của mình. Đó là thái độ ngông của người có tài và biết trân trọng, khẳng định tài năng của mình. Trong thời đại của Tản Đà, đất nước đang mất chủ quyền, tự giới thiệu như còn là biểu hiện của sự tự hào, tự tôn dân tộc. Hóm hỉnh hơn, nhà thơ còn khẳng định cả phong cách ngông của mình:
Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc HiếuĐày xuống hạ giới vì tội ngông.
Qua cuộc đối thoại tưởng tượng với trời, nhà thơ còn khẳng định nghĩa vụ và trách nhiệm cao cả của mình nói riêng và của người nghệ sĩ nói chung là lo việc thiên lương của nhân loại:
Trời rằng: Không phải là Trời đày,Trời định sai con một việc nàyLà việc thiên lương của nhân loại,Cho con xuống thuật cùng đời hay.
Tạo tình huống tưởng tượng này để an ủi mình, đồng thời cũng là để nói lên ý nghĩa cao quý của văn chương, của nhà văn.
Cũng nhân đây, nhà thơ giãi bày tâm sự của mình về nghề văn. Tản Đà được coi là người đặt nền móng cho Thơ mới, không chỉ bởi thơ ông mang hơi thở hiện đại của thời đại với cái Tôi cá nhân sừng sững giữa trang văn mà còn vì ông là nhà thơ đầu tiên mang văn chương ra bán phố phường, coi nghề văn là nghề kiếm sống. Khi giãi bày cảnh ngộ với Trời, nhà thơ đã kể lể rất chi tiết về nghề làm văn kiếm sống này. Tản Đà cũng đã dùng lời Trời để tự an ủi mình.
Với Hầu Trời, Tản Đà đã mang đến cho văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX một câu chuyện tưởng tượng vui và đầy không khí mới. Dưới hình thức một bài thơ hào hứng, nhà thơ đã khẳng định cái Tôi cá nhân của người nghệ sĩ. Nhà thơ vừa tự tin khẳng định tài năng của mình vừa nói lên quan điểm làm văn chương, đó là viết văn để phục vụ thiên lương. Viết văn hay làm cho đời đẹp hơn là .nhiệm vụ trời đã trao cho người nghệ sĩ.
Sáng tạo độc đáo về mặt nghệ thuật của Tản Đà là đã đưa ngôn ngữ đời thường nôm na, dễ hiểu, dung dị mà vẫn rất gợi cảm vào thơ ca. Ngôn ngữ thơ ở Hầu Trời đã có sự xâm nhập của giọng điệu văn xuôi và ngôn ngữ bình dân. Không quá câu nệ vào vần luật nên mạch cảm xúc được phát triển rất tự nhiên và cái Tôi cá nhân đã thỏa sức bộc lộ và thể hiện mình. Điểm độc đáo và thành công của bài thơ còn thể hiện ở chỗ tạo ra cái cớ là tình huống hầu Trời để tự khẳng định tài năng và quan niệm của mình. Đó là một kiểu ngông rất nghệ sĩ, vui vẻ và đáng yêu. Bài thơ cũng đã phác họa một chân dung thi sĩ Tản Đà với phong cách ngông độc đáo, đó là cái ngông của một nhà nho tài tử ở thời kì mà ý thức cá nhân bắt đầu được trân trọng và khẳng định.
Cảm nhận bài thơ Hầu trời – Mẫu 2
Bài thơ “Hầu Trời” của Tản Đà có sự khác biệt về số câu ở hai văn bản. Bản do Nguyễn Nghiệp sưu tầm, tuyển chọn – Nhà xuất bản Văn học, 1982 có 120 câu. Bản do Nguyễn Khắc Xướng sưu tập, chú thích – Nhà xuất bản Văn học, 1986 chỉ có 114 câu. Chúng tôi theo bản thứ nhất.
“Hầu Trời” là một bài thơ rất đặc sắc và độc đáo; độc đáo ở thi đề, độc đáo cảm hứng, độc đáo ở nội dung bài thơ. “Hầu Trời” được viết theo thể thơ thất ngôn trường thiên, bên cạnh những khổ thơ bốn câu, tác giả đan xen vào những đoạn thơ sáu câu, mười câu, mười hai câu… mang dáng dấp một bài hành nhỏ. Cấu trúc đa dạng ấy đã mở ra một không gian nghệ thuật để Tản Đà bộc lộ cái tôi của mình, và cho nó “tung hoành” nơi Thiên môn đế khuyết.
Phần đầu bài thơ kể chuyện lúc canh ba, thi sĩ ngâm thơ nơi hạ giới, tiếng ngân vang cả sông Ngân Hà”, đã “làm Trời mất ngủ…”. Trời bực mình bèn sai hai cô tiên bay xuống triệu chàng thi sĩ lên Thiên môn. Bốn câu thơ mở đầu, Tản Đà dùng bốn chữ “thật” để khẳng định đó là một chuyện thật đã xảy ra “sướng lạ lùng!”. Trong bài “Tìm hiểu Tản Đà”, thi sĩ Xuân Diệu viết:
“Bài “Hầu Trời”, tôi phục nhất đoạn mở:
Đêm qua chẳng biết có hay khôngChằng phải hoảng hốt không mơ mộngThật hồn! Thật phách! Thật thân thể!Thật được lên tiên – sướng lạ lùng!
Vào đột ngột cứu đầu cũng ra vẻ đặt vấn đề cho nó khách quan, nghi ngờ theo khoa học, để ba câu sau toàn là khẳng định, ăn hiếp người ta”.
Phái viên của Trời là hai nàng tiên “miệng cười mủm mỉm”,… Thi sĩ như được chắp cánh cùng bay lên Trời: “Theo hai cô tiên lên đường mây – Vù vù không cánh mà như bay”. Nhìn thấy Thiên môn tráng lệ, chàng thi sĩ vô cùng ngạc nhiên tự hỏi:
Cửa sơn đồ chói oai rực rỡ!Thiên môn đế khuyết như là đây ?
Vị khách làm thơ nơi hạ giới được Trời và chư tiên trọng thị. Sau khi thi lễ “sụp xuống lạy”, Trời ân cần sai tiên nữ “dắt tôi dậy”, rồi mời thi sĩ “ngồi chơi” trên “Ghế bành như tuyết, văn như mây”. Tiên đồng pha nước uống. Chư tiên kéo đến ngày một thêm đông. Đến để xem mặt người trần? Đến để đón tiếp với lòng hiếu khách? Hay đến để dự cuộc bình thơ, bình văn?
Tiên đồng pha nước uống vừa xong,Bỗng thấy chư tiên đến thật đông,Chung quanh bày ghế ngồi la liệt,Tiên bà, tiên cô, cùng tiên ông.
Cuộc đọc văn và bình văn nơi Thiên môn đế khuyết được Tản Đà kể lại thật sinh động và hấp dẫn. Thính giả gồm có Trời và đông đảo chư tiên. Sau khi nghe lời truyền bảo của Trời, văn sĩ cung kính thưa: “Dạ, bẩm lạy Trời, con xin đọc”, thì cuộc đọc văn, hình văn bắt đầu. Văn sĩ “Đọc hết văn vần sang văn xuôi
Hết văn thuyết lí lại văn chơi”, càng đọc càng “đắc ý”, càng “tốt hơi “, nhất là khi được nhấp giọng bằng “chè Trời”. Thính giả và văn sĩ trở thành bạn tri âm trong cuộc đọc văn, bình văn. Trời và chư tiên đều say mê thưởng thức nghệ thuật. Văn sĩ cao hứng đọc “ran cung mây”. Chẳng có rượu và hoa… nhưng biết bao thú vị. Trời nghe văn nghe thơ “cũng lấy làm hay”. Chư tiên mỗi người có một cách biểu cảm riêng. Có nàng tiên thì “nở dạ” hoặc “lè lưỡi”. Có người đẹp nơi Thiên môn thì xúc động quá mà “chau đôi mày”. Có nhiều nàng tiên bị thơ văn lôi cuốn “lắng tai đứng”. Ai cũng nhiệt thành “cũng vỗ tay” tán thưởng. Hỏi đã có văn sĩ nào xưa nay được hưởng hạnh phúc, được đọc văn, đọc thơ trước một thính giả nơi Thiên môn đế khuyết như vậy?
Văn sĩ tự hào “báo cáo” với Trời về những tác phẩm của mình đã được in: …
Hai quyển Khối tình văn thuyết líHai Khối tình con là văn chơiThần tiền, Giấc mộng văn tiểu thuyếtĐài gương, Lên sáu văn vị đờiQuyển Đàn bà Tàu lối văn dịchĐến quyển Lên tám nay là mười”
Trời “bật buồn cười” khen ngợi: “Văn đã giàu thay lại lắm lối” vì phong phú về thể cách, đa dạng về thể loại. Hạnh phúc biết bao khi văn sĩ được các tiên nữ gọi bằng “anh”:
“Chư tiên ao ước tranh nhau dặn:Anh gánh lên đây bún chợ Trời!”.
Cách kể chuyện mộc mạc tự nhiên, cách sử dụng ngôn từ, giọng điệu hóm hỉnh, tác giả đã làm nổi bật phong cách “bình dân” của ông Trời và các chư tiên, cùng với cái điệu bộ khúm núm và “thật thà” của văn sĩ. Qua cảnh đọc văn hầu Trời, Tản Đà đã phản ánh thực trạng xã hội lúc bấy giờ thật đáng buồn, nhất là tầng lớp văn sĩ như ông:
Bán văn buôn chữ kiếm tiền tiêu.Quanh năm luống những lo văn ế,Thân thế xem thua chú hát chèo!(Lo văn ế)
Đồng thời ông chỉ rõ, trong xã hội thực dân nửa phong kiến ấy đã có mấy tri âm hiểu và biết trân trọng những tác phẩm văn chương của ông, vì thế ông phải lên hầu Trời, đọc văn cho Trời và chư tiên thưởng thức. Nguyễn Khắc Hiếu đã tự hào bộc lộ cái bản ngã, cái tài năng đích thực của mình trước con mắt đồng loại! Trời với con mắt xanh, với sự thẩm văn tinh tế đã dành cho văn sĩ lần đầu mới gặp những lời ngợi khen vô giá:
Trời lại phê cho: “Văn thật tuyệt!Văn trần được thế chắc có ít!Nhời văn chuốt đẹp như sao băng!Khí văn hùng mạnh như mây chuyểnÊm như gió thoảng, tinh như sương!Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!…,
Sao băng, mây, gió, sương, mưa, tuyết được Trời đem ra so sánh để ngợi ca nhời văn, khí văn của chàng văn sĩ. Cách kể, cách tả của tác giả thật tài hoa và có duyên. Cái “tôi” bản ngã được khẳng định. Sau cuộc đọc văn, bình văn là cuộc hầu chuyện với Trời của văn sĩ:
Dạ, bẩm lạy Trời con xin thưaCon tên Khắc Hiếu, họ là Nguyễn…
Trời “ngợ”, rồi sai Thiên Tào lấy sổ xét: “Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu
Đày xuống hạ giới vì tội ngông. Nhưng rồi Trời bao dung và ân cần an ủi, khích lệ. Trời không “đày” mà giao phó cho văn sĩ một trọng trách là đem việc thiên lương” thuật lại cho “đời hay”, cho mọi người cùng biết. Văn sĩ phải gánh trọng trách đem “thiên lương”- giáo hoá người đời, để trần gian tươi đẹp hơn, yên vui hơn. Bài thơ “Hầu Trời” không chỉ mang cảm hứng lãng mạn, mà còn hàm chứa yếu tố hiện thực, đó là đoạn thơ 16 câu văn sĩ thưa với Trời về thân phận mình bấy lâu nay nơi hạ giới: rất nghèo khó, không có một thước đất cắm dùi, chỉ “còn một bụng văn”‘, kế sinh nhai ngày một thêm chật vật:
…Giấy người, mực người, thuê người in .Mướn cửa hàng người bán phường phốVăn chương hạ giới rẻ như bèoKiếm được đồng lãi thực là khóKiếm được thời ít, tiêu thời nhiềuLàm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu…
Khi nghe văn sĩ lo lắng thưa: “Trời lại sai con việc nặng quá – Biết có làm nổi mà dám theo?”, thì Trời đã động viên và hứa:
Rằng: “Con không nói, Trời đã biết,Trời dẫu ngồi cao, Trời thấu hết.Cho con cứ về mà làm ăn,Lòng thông chớ ngại chi sương tuyết,Cố xong công việc của Trời sai,Trời sẽ cho con về đế khuyết…
Đoạn cuối bài thơ kể chuyện Trời sai Khiên Ngưu đóng xe đưa Trích tiên trở lại trần gian. Cuộc tiễn đưa của chư tiên vừa lưu luyến, vừa trang trọng: “Hai hàng lụy biệt giọt sương rơi”. Khi trăng tà non Đoài, tiếng gà gáy xao xác, nhà thơ đã về tới sân nhà, cảm thấy cô đơn và ngậm ngùi. Vừa tiếc rẻ, vừa mong ước:
Giữa sân còn đứng riêng ngậm ngùi.Một năm ba trăm sáu mươi đêm,Sao được đêm đêm lên hầu Trời!
Bài “Hầu Trời” như một truyện cổ tích được viết bằng thơ. Nhân vật Trời và các chư tiên rất giản dị, bình dân, thân mật và dễ mến. Bài thơ cho ta thấy Tản Đà có một trí tưởng tượng phong phú, một vốn từ ngữ giàu có, nhất là khi ông nói về Trời, về các chư tiên và cách sống của họ. Đoạn thơ nói về cuộc đọc văn và bình văn, về ngôn ngữ đối thoại giữa văn sĩ với Trời và các chư tiên được kể lại rất sinh động và lí thú. Có lúc chúng ta cảm thấy cuộc bình văn hình như đang diễn ra giữa thanh thiên bạch nhật nơi cõi đời mà mình từng được tham dự.
“Hầu Trời” là một bài thơ độc đáo và đặc sắc, tuy khá dài nhưng bố cục chặt chẽ, giọng thơ liền mạch, nhất khí, cảnh và tình rất tự nhiên, diễn biến theo câu chuyện, lôi cuốn người đọc từ đầu đến cuối. Bài thơ trường thiên “Hầu Trời” giúp ta cảm nhận thêm chất lài tử, tài hoa và cái ngông của Tản Đà thi sĩ.
Cảm nghĩ bài thơ Hầu trời – Mẫu 3
Được coi là một dấu gạch nối giữa hai nền văn học truyền thống và văn học hiện đại, Tản Đà có lẽ là nhà thơ đặc biệt nhất trong nền thi ca của Việt Nam. Ông là nhà thơ, “là hiện tượng phức tạp vào bậc nhất nhất trong lịch sử văn học Việt Nam”. Ở thơ của ông, chủ đạo không chỉ là sự lãng mạn, bay bổng mà còn là một cái “tôi” ngông ngạo, bất chấp. Đọc bất cứ bài thơ nào của Tản Đà,ta cũng có thể cảm nhận được ở trong đó cái chất thơ ngông cuồng của ông. Và “Hầu trời” là một trong những tác phẩm khiến cho ta cảm nhận được rõ cái chất thơ đặc sắc ấy!
Bài thơ “Hầu trời” được sáng tác năm 1921, đã thể hiện cái tôi, cái bản sắc nhất của Tản Đà. Cả bài thơ là lối thơ với phong cách ngông ngạo vốn có cùng với chất thơ lãng mạn và lối tư duy sáng tạo mới mẻ mà ít nhà thơ nào thể hiện được. Đọc “Hầu trời”, người đọc được thấy được một cái tôi đầy sảng khoái, tự đắc của tác giả. Ngoài ra, tác phẩm còn thể hiện ý thức về trách nhiệm của người thi nhân đối với nền văn học nước nhà và khát vọng được cống hiến của ông cho thơ văn. Cả bài thơ là một câu chuyện kể được sáng tạo bằng trí tưởng tượng và được dẫn dắt bởi lối thơ hóm hỉnh, kể về một cuộc dạo chơi lên trời của Tản Đà, ông được đọc thơ văn cho trời nghe. Ở đó, nhà thơ được nhà trời đón tiếp vô cùng long trọng, được nhà trời khen ngợi và say mê, yêu thích văn chương của mình. Cuối cùng là trách nhiệm mà nhà trời trao cho nhà thơ “làm việc thiên lương của nhân loại”.
Bước vào bài thơ, nhà thơ đã giới thiệu ngay câu chuyện của mình:
” Đêm qua chẳng biết có hay không….Thiên môn đế khuyết như là đây!”
Mở đầu bài thơ bằng một câu nghi vấn, đầy sự thắc mắc:
“Đêm qua chẳng biết có hay không….Thật được lên tiên sướng lạ lùng”
Tác giả đã khéo léo kéo người đọc vào một câu chuyện kể tự bịa của mình nhưng lại hào hứng y như một câu chuyện thật sự.Câu chuyện của Tản Đà kể ra nhưng chính Tản Đà cũng nghi ngờ “chẳng biết có hay không”. Thế nhưng ngay sau câu hỏi vào đầu câu chuyện, nhà thơ đã khẳng định ngay tính chân thật của câu chuyện mình đang định kể rằng:
“Chẳng phải hoảng hốt, chẳng mơ mòngThật hồn! Thật phách! Thật thân thể!Thật được lên tiên, sướng lạ lùng”
Thật là một lời mở màn khiến người đọc phải bối rối.Mở đầu bằng một câu hỏi, nhưng ba câu thơ tiếp, nhà thơ lại khẳng định một cách chắc chắn rằng chuyện của mình chuyện thật, chính mình đã trải qua, không phải là “mơ mòng”.Điệp từ “thật” ba lần được lặp lại chính là để khẳng định cho người đọc cũng chính là khẳng định cho tác giả rằng ông được “lên tiên, sướng lạ lùng”.
Câu chuyện lại được Tản Đà tiếp diễn bằng những câu thơ mang đầy văn phong kể chuyện của dân gian ta. Lối thơ hóm hỉnh, nhẹ nhàng, dân dã dẫn người đọc chúng ta đi qua câu chuyện kể của ông một cách thật hài hòa.Ông kể rằng trong một đêm nằm thao thức một mình “dưới bóng ngọn đèn xanh”, rồi “nằm chán, ngồi dậy đun ấm nước” và ngâm văn chơi cùng trăng. Trong bầu không khí đang cô quạnh, buồn chán, chợt thấy hai cô tiên từ trên trời bay xuống, tủm tỉm cười nói với ông rằng:
“Trời nghe hạ giới ai ngâm nga….Có hay lên đọc, trời nghe qua”.
Chỉ vì nằm ngâm thơ một mình vậy thôi mà nhà thơ được mời lên trời để đọc văn cho nhà trời thưởng thức. Một câu chuyện lên tiên đầy bất ngờ, đầy yếu tố hư hư thực thực.Bằng những câu thơ vừa mang tính chất tự sự lại vừa mang yếu tố lãng mạn, nhà thơ đã mở đầu câu chuyện của mình chỉ bằng hai mươi tư câu thơ ngắn ngủi.Những câu thơ ấy đã kết hợp nhuần nhuyễn cả cái trữ tĩnh lẫn cái tự sự cũng với lối kể chuyện hóm hỉnh đầy dân dã của mình, Tản Đà đã khiến người đọc như được chìm trong một câu chuyện cổ tích thực sự.Qua những câu thơ này, chúng ta cũng cảm nhận được một cái tôi đầy lãng mạn, bay bổng của Tản Đà.Và không thể thiếu trong đó là cái tôi vô cùng đắc ý của mình, tự hào nhận thức được chính mình.
Tiếp theo trong câu chuyện kể về việc lên trời, lên tiên, nhà thơ đã dẫn người đọc chứng kiến cuộc hội ngộ với Trời và chư tiên của mình:
“Chư tiên ngồi quanh đã tĩnh túc….Anh gánh lên đây bán cho Trời”
Đây là phần thơ mà nhà thơ dùng để miêu tả cảnh mà mình đọc thơ cho Trời cùng chư tiên ngồi nghe. Cuộc đọc văn, chơi văn ở chốn thiên đình được Tản Đà kể lại một cách vô cùng sinh động. Khi nhà thơ lên tới trời, chư tiên đã có mặt cùng nhà Trời đông đủ để chuẩn bị nghe ông đọc thơ, bình thơ. Không chỉ vậy, nhà thơ còn được nhà Trời “pha nước để nhấp giọng” cùng với chư tiên “tĩnh túc”, im lặng, chăm chú ngồi quanh để chuẩn bị được nghe đọc thơ. Khi cuộc đọc văn bắt đầu, nhà thơ đã dùng hết tài năng của mình để:
“Đọc hết văn vần lại văn xuôiHết lý thuyết lại văn chơi”
Tất cả những gì nhà thơ sáng tác đều mang ra đọc cho Trời nghe, càng đọc lại càng “đắc ý”, càng “văn dài hơi tốt ra cùng mây”. Nhà Trời và chư tiên quanh đó cũng vô cùng chăm chú lắng nghe, cũng phải “lấy làm hay” với văn chương của tác giả. Ở đây, ta như thấy được một cái tôi đang trong cơn đắc ý của Tản Đà khi ông miêu tả:
“Tân như nở dạ, Cơ lè lưỡi…Đọc xong mỗi bài cũng vỗ tay”
Nếu như ở dưới hạ giới, nhà thơ còn “lo văn ế” thì ở đây, văn chương của ông lại được hoan nghênh, đón đợi, chào mời. Đó chẳng phải là một cái tôi ngông ngạo, kiêu hãnh, tự hào với chính văn thơ và tài năng của mình hay sao? Văn thơ của ông tuy không được đón chào nơi hạ giới nhưng lại được chư tiên trên trời “chăm chú lắng nghe”, thưởng thức và khen hay. Mỗi chư tiên đều có cách biểu cảm của riêng mình, có người “nở dạ”, người “le lưỡi, người lại “chau đôi mày”, … nhưng đều tán thưởng mỗi bài thơ mà Tản Đà đọc. Một loạt biểu cảm của các tiên trên trời được Tản Đà liệt kể ra như để chứng minh sức hấp dẫn của thơ văn của mình đối với nhà trời vậy.
Không chỉ vậy, sau khi đọc xong các bài “văn vần lại văn xuôi”, nhà thơ lại kể tên một loạt những tác phẩm nổi tiếng của mình như để chứng minh tài năng:
“Những áng văn con in cả rồi…Chửa biết con in ra mấy mươi?”
Kể ra đây, nhà văn như đang khẳng định sự nghiệp văn chương giàu có của mình khiến cho nhà trời cũng phải tấm tắc khen rằng:
“Văn đã giàu thay lại lắm lối…Anh gánh lên đây bán cho trời”
Đọc đến đây, người đọc lại một lần nữa được cảm nhận cái tôi đặc sắc trong thơ của Tản Đà.Đó là một cái tôi đầy cao hứng và tự đắc, một cái tôi tràn đầy niềm kiêu hãnh, tự hào về tài năng của bản thân. Với những tác phẩm của mình, nhà thơ tự hào khi được nhà trời khen ngợi, được các chư tiên “ao ước tranh nhau dặn”. Đối với một nhà thơ, được người đọc khen ngợi và hưởng ứng tác phẩm của mình đó chẳng phải là một điều đáng tự hào hay sao?
Và với cách kể chuyện duyên dáng, hóm hỉnh, nhà thơ lại tiếp tục câu chuyện kể của mình:
” Trời lại phê cho “Văn thật tuyệt!””…Sao được mỗi đêm lên hầu trời.”
Sau khi đọc văn cho trời nghe và được Trời khen về tài làm văn của mình, nếu với tài năng ấy, ắt hẳn sẽ không bao giờ “lo văn ế”, ấy vậy mà không, nhà thơ đã phản ánh ngay cái thực trạng đáng buồn của lớp văn sĩ thời bấy giờ khi văn chương không được chú ý, được đánh giá đúng tầm giá trị của nó:
“Bán văn buôn chữ kiếm tiền tiêuQuanh năm luống những lo văn ếThân thế xem thua chú hát chèo”
Thế nên khi được Trời khen bằng những lời khen ngợi vô giá, tác giả đã vô cùng sung sướng. Trời khen rằng văn thơ :”thật tuyệt”, “văn trần được thế chắc có ít”, rồi:
“Nhời văn chuốt đẹp như sao băng…Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!”
Đây là những lời khen ngợi vô giá dành cho Tản Đà khi văn thơ của ông được đem ra so sánh với những gì đẹp nhất trên trời như sao băng, mây chuyển, gió thoảng, tinh như sương,…Ở đoạn thơ này, tác giả đã thật tài tình khi không chỉ bộc lộ được cái tài hoa trong lối viết thơ của mình mà còn lồng trong đó, ý thức về cái tôi vô cùng mạnh mẽ. Nếu như chúng ta thường đánh giá cái tôi của Nguyễn Tuân là độc đáo, là đặc sắc, ta cũng không thể quên cái tôi ngông của Tản Đà khi ông tự nhận rằng:”Đày xuống hạ giới vì tội ngông”. Cái ngông của ông ở đây chỉ là ý thức về giá trị của bản thân mình, ý thức được những thành tựu to lớn và giá trị của các tác phẩm trong sự nghiệp thơ văn của mình. Đó là những điều mà ở xã hội thời bấy giờ chưa được đánh giá đúng tầm với Tản Đà.
Mặc dù kể một câu chuyện hư ảo, nhưng nhà thơ vẫn phỏng trong đó cái hiện thực thời của chính mình.
” Bẩm Trời, cảnh con thực nghèo khó…Biết làm có được mà dám theo?”
Đọc đoạn thơ này, người đọc được thấy đoạn đối thoại của Trời đối với Tản Đà, đó là sự giao phó trách nhiệm đối với nhà thơ:
“Trời định sai còn làm việc nàyLà việc thiên lương của nhân loại”
Đây là sự ý thức về trách nhiệm đồng thời là lời tự an ủi mình của nhà thơ về ý nghĩa cao quý của thi nhân đối với con người và cuộc sống. Thế nhưng có một sự thật rằng cái nghèo khó luôn là bạn song hành của những thi nhân chân chính thời bấy giờ đã được Tản Đà phơi bày ra cho nhà Trời. Nỗi khổ có tài nhưng không được trân trọng “văn chương rẻ như bèo” rồi cái đói khi “lo ăn lo mặc hết ngày tháng”. Những hiện thực về thân phận của mình được Tản Đà kể lại một cách đầy sinh động và rõ ràng. Những mối lo lắng, bận tâm cơm áo gạo tiền của người thi nhân sẽ khiến cho họ khó có thể thực hiện được cái “thiên lương” mà Trời đã ban cho.
Đoạn thơ kết kể lại phần cuối khi nhà thơ được nhà trời sai đưa về.Cuộc tiễn đưa thi nhân đầy trang trọng và lưu luyến. Và khi “trăng đã tà”, “tiếng gà xao xác”, … tới tận khi đứng giữa sân nhà mình, nhà thơ không khỏi ngậm ngùi, luyến tiếc cuộc gặp gỡ ngắn ngủi với Trời và than rằng:
“Một năm ba trăm sáu mươi đêmSao được mỗi đêm lên hầu trời.”
Bài thơ khép lại nhưng lại để lại trong lòng người đọc những dư âm khó quên. Một câu chuyện biết rằng chỉ là tưởng tượng nhưng lại khiến cho người đọc cảm nhận được sự gần gũi, sống động tới lạ kì. Có được điều đó phải kể tới giọng thơ vô cùng hóm hỉnh, dân dã, mà giản dị của Tản Đà cùng với lối thơ tự sự, lãng mạn đầy linh hoạt.Thể thơ được nhà thơ sử dụng là thể thất ngôn trường thiên nhưng được biến đổi với cách gieo vần linh hoạt.Ở bài thơ này, chúng ta có thể thấy rõ phong cách thơ vô cùng đặc sắc và ấn tượng của Tản Đà với ý thức về một cái tôi ngông cuồng mạnh mẽ. Một cái ngông thể hiện ở một con người có bản lĩnh, tài năng với ý thức trách nhiệm của người thi nhân.
Bài thơ “Hầu trời” đã mang đến cho văn học Việt Nam một tác phẩm với một câu chuyện không chỉ hóm hỉnh vui tươi mà còn mang đầy tính triết lý về cái tôi của người nghệ sĩ. Có thể nói, với tác phẩm này, Tản Đà đã thổi một làn gió mới vào văn học Việt lúc bây giờ nên có thể hiểu tại sao ông được coi là “dấu gạch nối giữa hai nền văn học”. Và cũng ở tác phẩm này, với lối thơ của mình, ông đã thể hiện cái tôi vô cùng sâu sắc với cái ngông hiếm thấy trong nền thi ca Việt.Có thể nói, với văn học Việt, Tản Đà quả là một cái tên sáng, một thi nhân chân chính và tài năng nhất