0

Bài thơ Hai chữ nước nhà – Trích Bút quan hoài I (1924)

Share

Qua bài thơ “Hai chữ nước nhà”, Trần Tuấn Khải đã mượn một câu chuyện lịch sử có thật để để bộc lộ nỗi đau mất nước, nỗi căm giận bọn cướp nước và bè lũ tay sai. Đồng thời qua đó khích lệ tinh thần yêu nước của nhân dân, bày tỏ niềm khát vọng tự do, độc lập cho dân tộc.

Kính mời bạn đọc cùng tham khảo tài liệu giới thiệu về tác giả Trần Tuấn Khải và bài thơ “Hai chữ nước nhà” được đăng tải chi tiết dưới đây.

Bài thơ Hai chữ nước nhà của Trần Tuấn Khải

I. Nội dung bài thơ Hai chữ nước nhà

(Nghĩ lời ông Phi Khanh dặn ông Nguyễn Trãi khi ông bị quân Minh bắt giải sang Tàu)

Chốn Ải Bắc mây sầu ảm đạmCõi trời Nam gió thảm đìu hiuBốn bề hổ thét chim kêuĐoái nom phong cảnh như khêu bất bình

Hạt máu nóng thấm quanh hồn nướcChút thân tàn lần bước dặm khơiTrông con tầm tã châu rơiCon ơi con nhớ lấy lời cha khuyên:

Giống Hồng Lạc hoàng thiên đã địnhMấy ngàn năm suy thịnh đổi thayTrời Nam riêng một cõi nàyAnh hùng, hiệp nữ xưa nay kém gì!

Than vận nước gặp khi biến đổiÐể quân Minh thừa hội xâm lăngBốn phương khói lửa bừng bừngXiết bao thảm hoạ xương rừng máu sông!

Nơi đô thị thành tung quách vỡChốn dân gian bỏ vợ lìa conLàm cho xiêu tán hao mònLạ gì khác giống dễ còn thương đâu!

Thảm vong quốc kể sao cho xiếtTrông cơ đồ nhường xé tâm canNgậm ngùi khóc đất giời thanThương tâm nòi giống lầm than nỗi này!

Khói Nùng lĩnh như xây khối uấtSóng Long giang nhường vật cơn sầuCon ơi! càng nói càng đau…Lấy ai tế độ đàn sau đó mà?

Cha xót phận tuổi già sức yếuLỡ sa cơ đành chịu bó tayThân lươn bao quản vũng lầyGiang sơn gánh vác sau này cậy con

Con nên nhớ tổ tông khi trướcĐã từng phen vì nước gian laoBắc Nam bờ cõi phân maoNgọn cờ độc lập máu đào còn dây

Kìa Trưng nữ ra tay buồm láiPhận liễu bồ xoay với cuồng phongGiết giặc nước, trả thù chồngNghìn thu tiếng nữ anh hùng còn ghi

Kìa Hưng Đạo gặp khi quốc biếnVì giống nòi quyết chiến bao phenSông Bạch Đằng phá quân NguyênGươm reo chính khí nước rền dư uy

Coi lịch sử gươm kia còn tỏMở dư đồ đất nọ chưa tanGiang san này vẫn giang sanMà nay sẻ nghé tan đàn vì ai?

Con nay cũng một người trong nướcPhải nhắc câu Gia, Quốc đôi đườngLàm trai hồ thỉ bốn phươngSao cho khỏi thẹn với gương Lạc Hồng

Thời thế có anh hùng là thếChữ vinh hoa xá kể làm chi!Mấy trang hào kiệt xưa kiaHy sinh thân thế cũng vì nước non

Con đương độ đầu xanh tuổi trẻBước cạnh tranh há dễ nhường ai?Phải nên thương lấy giống nòiĐừng tham phú quý mà nguôi tấc lòng

Kiếp luồn cúi, đỉnh chung cũng nhục;Thân tự do chiên chúc mà vinhCon ơi nhớ đức sinh thànhSao cho khỏi để ô danh với đời

Chớ lần lữa theo loài nô lệBán tổ tiên kiếm kế sinh nhaiĐem thân đầy đọa tôi đòiNhục nhằn bêu riếu muôn đời hay chi?

Sống như thế, sống đê, sống mạtSống làm chi thêm chật non sông!Thà rằng chết quách cho xongCái thân cẩu trệ ai mong có mình!

Huống con cũng học hành khôn biếtLàm giống người phải xét nông sâuTuồng chi gục mặt cúi đầuCam tâm làm kiếp ngựa trâu cho đành!

Nỗi tâm sự đinh ninh dường ấyCha khuyên con có bấy nhiêu lờiCon ơi! con phải là ngườiThì con theo lấy những lời cha khuyên

Cha nay đã muôn nghìn bi thảmNói bao nhiêu tâm khảm càng đau!Chân mây mặt cỏ rầu rầuCàng trông cố quốc mạch sầu càng thương!

Lời cha dặn khắc xương để dạMấy gian lao con chớ sai nguyềnTuốt gươm thề với vương thiênPhải đem tâm huyết mà đền cao sâu

Gan tráng sĩ vững sau như trướcChí nam nhi lấy nước làm nhàTấm thân xẻ với san hàTượng đồng bia đá hoạ là cam công

Nữa mai mốt giết xong thù nghịchMũi long tuyền lau sạch màu tanhLàm cho đất rộng trời kinhBấy giờ quốc hiển gia vinh có ngày!

Nghĩa vụ đó con hay chăng tá?Tính toán sao vẹn cả đôi đườngCha dù đất lạ gởi xươngTrông về cố quốc khỏi thương hồn già

Con ơi! Hai chữ nước nhà!

II. Đôi nét về tác giả Trần Tuấn Khải

– Trần Tuấn Khải (1895 – 1983) bút hiệu là Á Nam.

Xem Thêm:   Đừng tốn tiền mua máy lọc, mẹ trồng 6 loại cây trong nhà, vừa đẹp lại giúp hút khí độc, tiêu diệt nấm mốc

– Ông quê ở Quang Xán, xã Mỹ Hà, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định.

– Trần Tuấn Khải thường mượn những đề tài lịch sử hoặc biểu tượng nghệ thuật bóng gió để bộc lộ nỗi đau mất nước, nỗi căm giận bọn cướp nước và bè lũ tay sai. Đồng thời qua đó khích lệ tinh thần yêu nước của nhân dân, bày tỏ niềm khát vọng tự do, độc lập cho dân tộc.

Xem Thêm:   Tiếng Anh 9 Unit 4: Getting started – Soạn Anh 9 trang 40, 41

– Các tác phẩm chính: Tập thơ Duyên nợ phù sinh I, II (1921 và 1923), Bút quan hoài I, II (1924 và 1927), Với sơn hà I, II (1936 và 1949)…

III. Giới thiệu về bài thơ Hai chữ nước nhà

1. Hoàn cảnh sáng tác

– Là bài thơ mở đầu của tập Bút quan hoài I (1924).

Xem Thêm:   Bài kiểm tra trắc nghiệm Tiếng Anh lớp 3 (có đáp án)

– Bài thơ được lấy đề tài lịch sử vào thời quân Minh xâm lược nước ta: Ông Nguyễn Phi Khanh (cha Nguyễn Trãi) bị giặc bắt đem sang Trung Quốc, Nguyễn Trãi đi theo nhưng đến biên giới, Nguyễn Phi Khanh khuyên con nên trở về tính chuyện trả thù nhà, đền nợ nước.

2. Bố cục

Gồm 3 phần:

– Phần 1. Từ “Chốn Ải Bắc mây sầu ảm đạm” đến “Con ơi con nhớ lấy lời cha khuyên”. Hoàn cảnh của đất nước lúc bấy giờ.

– Phần 2. Từ “Giống Hồng Lạc hoàng thiên đã định” đến “Thì con theo lấy những lời cha khuyên”. Lời căn dặn của người cha với con.

– Phần 3. Còn lại. Nghĩa vụ của con đối với đất nước.

5/5 - (630 votes)